(PLVN) – Quá trình triển khai Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 đến nay đã góp phần bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân. Tuy nhiên, bối cảnh hiện nay đang đặt ra yêu cầu phải sửa đổi Luật nhằm giải quyết các hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong quá trình thi hành để tạo điều kiện cho người dân tiếp cận thông tin nhanh chóng, thuận lợi, tiết kiệm thời gian, chi phí hơn nữa.
Cần thiết rà soát, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Tiếp cận thông tin
Sau khi Luật Tiếp cận thông tin (TCTT) được thông qua, đã có rất nhiều chủ trương, chính sách liên quan của Đảng, Nhà nước được ban hành. Có thể kể đến là Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đưa ra định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2025-2030; Nghị quyết số 27-TW/NQ ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới và gần đây nhất là Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Ban Chấp hành Trung ương về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Ban Chấp hành Trung ương về phát triển kinh tế tư nhân.
Cùng với đó, một số luật được ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung có liên quan đến TCTT, quản lý, sử dụng thông tin/dữ liệu của các cơ quan nhà nước (như Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022, Luật Giao dịch điện tử năm 2023, Luật Dữ liệu năm 2024, Luật Lưu trữ năm 2024, Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân năm 2025…). Đồng thời, qua công tác tổng kết việc thi hành Luật TCTT (từ ngày 01/7/2018 đến ngày 30/6/2025) cho thấy, việc triển khai thi hành Luật còn gặp một số hạn chế, khó khăn về phạm vi và trách nhiệm cung cấp thông tin, về biện pháp bảo đảm thực hiện quyền TCTT…
Những cơ sở chính trị, pháp lý và thực tiễn nêu trên đặt ra yêu cầu phải rà soát, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật TCTT nhằm thể chế hóa đầy đủ, kịp thời các chủ trương, đường lối của Đảng về phát huy dân chủ, bảo đảm quyền TCTT của công dân phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của Việt Nam, nâng cao tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị, tăng cường ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong cung cấp thông tin cho người dân. Các quy định của Luật TCTT cũng cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật; phù hợp với yêu cầu đổi mới tư duy xây dựng luật hiện nay.
Sẽ mở rộng chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin
Trên cơ sở đó, qua nghiên cứu, Bộ Tư pháp đang tiến hành xây dựng và tham vấn chính sách Luật TCTT nhằm mục đích giải quyết các hạn chế, khó khăn, vướng mắc có nguyên nhân xuất phát từ quy định của Luật TCTT đã được các cơ quan, Bộ, ngành, địa phương phản ánh trong quá trình sơ kết, tổng kết việc thi hành Luật; sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm bảo đảm tốt hơn, phù hợp với tình hình và điều kiện kinh tế – xã hội của Việt Nam hiện nay, trong đó có việc mở rộng phạm vi thông tin công dân được tiếp cận, bổ sung các cơ quan, đơn vị có trách nhiệm cung cấp thông tin, bổ sung các hình thức cung cấp thông tin, ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong cung cấp thông tin.
Cụ thể, về chính sách mở rộng chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin, mục tiêu chính sách là xác định rõ và ràng buộc trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong việc cung cấp thông tin cho công dân, bảo đảm tính công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình của các cơ quan, tổ chức, đơn vị. So sánh giữa các giải pháp được nghiên cứu, tại Hội nghị Tham vấn về hồ sơ chính sách Luật Tiếp cận thông tin (sửa đổi) diễn ra vào ngày 16/10, theo Vụ trưởng Vụ Pháp luật hình sự – hành chính (Bộ Tư pháp) Nguyễn Thị Hạnh – đại diện cơ quan lập đề xuất chính sách, dự kiến giải pháp được lựa chọn là quy định cơ quan, tổ chức có trách nhiệm cung cấp thông tin bao gồm các cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp, Kiểm toán nhà nước; HĐND, UBND cấp tỉnh, cơ quan chuyên môn và các tổ chức hành chính khác thuộc UBND cấp tỉnh; HĐND, UBND cấp xã; đơn vị sự nghiệp công lập cung cấp dịch vụ công cơ bản, thiết yếu.
Về chính sách mở rộng phạm vi thông tin phải công khai, bà Nguyễn Thị Hạnh cho biết, việc sửa đổi quy định của Luật TCTT theo hướng mở rộng phạm vi thông tin phải công khai để bảo đảm đồng bộ với các luật chuyên ngành, phù hợp với xu thế cơ quan nhà nước mở rộng phạm vi thông tin phải công khai và chủ động công khai thông tin cho người dân, tăng hiệu quả điều chỉnh của Luật TCTT với vai trò luật chung.
Dưới sự chủ trì của Vụ trưởng Vụ Pháp luật hình sự – hành chính, các đại biểu tham dự Hội nghị đã tích cực phát biểu, góp ý nội dung hồ sơ chính sách, chia sẻ những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành Luật TCTT năm 2016. Đa số các đại biểu đánh giá cao sự chuẩn bị hồ sơ chính sách của Bộ Tư pháp, cơ bản nhất trí về thành phần và nội dung hồ sơ chính sách. Nhiều ý kiến đã bao quát các vấn đề chính sách của Luật như phạm vi thông tin mà các cơ quan, tổ chức, đơn vị có nghĩa vụ công khai; phạm vi thông tin công dân được tiếp cận; chủ thể có quyền yêu cầu cung cấp thông tin; phương thức cung cấp thông tin phù hợp với xu hướng đẩy mạnh chuyển đổi số hiện nay (như qua cổng dữ liệu, cổng dịch vụ công quốc gia…); vấn đề cung cấp thông tin của cấp xã; chi phí TCTT…
Đại diện Sở Quy hoạch – Kiến trúc (UBND thành phố Hà Nội) đã phản ánh những vấn đề đặc thù về TCTT trong lĩnh vực quy hoạch. Trên cơ sở đó, vị đại diện đã nêu những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành pháp luật về TCTT hiện nay liên quan đến việc áp dụng Luật TCTT và các luật chuyên ngành; kiến nghị có hướng dẫn cụ thể về quy định từ chối yêu cầu cung cấp thông tin trong trường hợp “thông tin được yêu cầu vượt quá khả năng đáp ứng hoặc làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cơ quan” (quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 28 Luật TCTT năm 2016) để tạo thuận lợi trong áp dụng pháp luật. Đại diện Sở Quy hoạch – Kiến trúc thành phố Hà Nội cũng nêu vấn đề về việc giải quyết yêu cầu cung cấp những thông tin, tài liệu, quy hoạch đã hết hiệu lực, bị thay thế bởi văn bản khác để đề nghị cơ quan chuyên môn hướng dẫn hướng giải quyết.