Tòa sơ thẩm tuyên bác yêu cầu của nhà mạng với lập luận khách hàng là bên yếu thế được bảo vệ khi thỏa thuận giữa hai bên không rõ ràng.
Ngày 15-8, TAND TP.HCM đã xử phúc thẩm vụ Tập toàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (gọi tắt là tập đoàn) kiện đòi bà Sỹ Truyền Hoàng Ngân hơn 1 tỉ đồng cước điện thoại. Do vụ án phức tạp nên HĐXX quyết định nghị án kéo dài đến ngày 21-8 sẽ tuyên án.
Sáu ngày, cước điện thoại hơn 1 tỉ
Theo hồ sơ, tháng 7-2013, bà Ngân ký hợp đồng cung cấp và sử dụng dịch vụ bưu chính viễn thông. Theo đó, tập đoàn cung cấp cho bà một SIM điện thoại trả sau có ba số cuối là 524. Ngoài gọi trong nước, bà Ngân còn được gọi chuyển vùng quốc tế đối với các máy điện thoại khác, không bị giới hạn bởi vị trí của máy gọi, vị trí máy nhận cuộc gọi, loại máy. Bà Ngân đóng tiền ký quỹ là 5 triệu đồng, nếu không sử dụng dịch vụ thì bà được nhận lại số tiền này.
Sau đó tập đoàn phát hiện số điện thoại của bà Ngân từ ngày 1 đến 6-7-2013 (sáu ngày) đã sử dụng dịch vụ chuyển vùng quốc tế làm phát sinh cước hơn 1 tỉ đồng. Tập đoàn ngừng cung cấp dịch vụ và thông báo yêu cầu thanh toán cước nhưng bà Ngân không đồng ý nên khởi kiện. Nguyên đơn đã cung cấp cho tòa án bảng tính cước phí chi tiết gồm 100 trang.
Bà Ngân thừa nhận có ký hợp đồng dịch vụ như trên. Tuy nhiên, bà chỉ đăng ký sử dụng dịch vụ chuyển vùng quốc tế trong trường hợp thuê bao ở nước ngoài. Nhưng hợp đồng giao kết không có thỏa thuận về việc gọi quốc tế mà không bị giới hạn bởi vị trí máy gọi, máy nhận. Nhân viên giao dịch giải thích về số tiền ký quỹ 5 triệu đồng rằng nếu cước phí quá số tiền này thì sẽ bị chặn cuộc gọi. Trong hợp đồng, giao dịch viên ghi thêm chữ “ngưỡng 500” và giải thích là ngưỡng cuộc gọi trong nước một tháng là không quá 500.000 đồng.
Quá trình tòa lấy lời khai, bà Ngân cho biết từng cho một người quen quốc tịch Pakistan sử dụng SIM điện thoại này. Sau đó bà không liên lạc được với người này và không biết người này ở đâu nên đã có đơn tố cáo yêu cầu công an làm rõ.
Hợp đồng không rõ, nhà mạng chịu
Tháng 9-2014, TAND quận 11 xử sơ thẩm nhận định theo lời khai của bà Ngân thì vụ việc có dấu hiệu của tội phạm hình sự. Nhưng đến ngày xét xử mà bà Ngân không cung cấp được chứng cứ chứng tỏ vụ án được khởi tố. Trong khi quan hệ giữa tập đoàn và bà Ngân là tranh chấp hợp đồng dân sự nên tòa thụ lý giải quyết. Nếu có tội phạm thật sự thì sau này xác định được người phạm tội sẽ xem xét theo quy định chung.
Theo tòa, hợp đồng ký kết có nội dung không rõ ràng, các bên không thống nhất được với nhau về cách giải thích hợp đồng, không có chứng cứ chứng minh việc nguyên đơn đã giải thích rõ ràng cho bị đơn về những nội dung viết tắt trong hợp đồng. Theo đó, trong trường hợp bên mạnh thế đưa vào nội dung bất lợi cho bên yếu thế thì khi giải thích hợp đồng phải theo hướng có lợi cho bên yếu thế. Khoản 2 Điều 407 BLDS cũng quy định hợp đồng theo mẫu mà có điều khoản không rõ ràng thì bên đưa ra hợp đồng phải chịu bất lợi khi giải thích điều khoản đó.
Theo tòa, phía tập đoàn được xác định là bên mạnh thế, bà Ngân là bên yếu thế. Vì nguyên đơn đương nhiên có hiểu biết hơn so với bà Ngân về những vấn đề liên quan đến việc ký kết và sử dụng dịch vụ viễn thông. Hợp đồng cũng do nguyên đơn soạn nên phải giải thích hợp đồng theo hướng có lợi cho bà Ngân.
Tập đoàn cho rằng khi ký hợp đồng không quy định về giới hạn cước phí cuộc gọi quốc tế và cuộc gọi chuyển vùng quốc tế. Khoản tiền 5 triệu đồng là tiền ký quỹ, khi nào chấm dứt hợp đồng thì sẽ trả lại cho bà Ngân là không phù hợp trong mối liên hệ với các quy định khác mà đôi bên đã thỏa thuận. Bởi lẽ khi thỏa thuận về ngưỡng tính phí cước gọi nội địa là 500.000 đồng mà không quy định ngưỡng cước tối đa cho các cuộc gọi quốc tế là có sự mâu thuẫn, không phù hợp với quy luật thông thường. Vì nguy cơ phát sinh tiền cước quốc tế quá nhiều mà chủ thuê bao không trả được lúc nào cũng cao hơn so với cước nội địa.
Bác đơn kiện
Phía tập đoàn còn giải thích rằng trong hợp đồng, giao dịch viên có ghi chữ viết tay “RM” và trong phiếu thu có ghi chữ “mở RM” có nghĩa là bà Ngân đăng ký sử dụng dịch vụ roaming được gọi chuyển vùng quốc tế mà không bị giới hạn bởi vị trí của máy gọi, vị trí máy nhận cuộc gọi, loại máy nhận cuộc gọi. Cách giải thích này là không phù hợp. Vì trong lĩnh vực viễn thông, thuật ngữ roaming được hiểu theo nghĩa chung nhất là dùng để chỉ việc mở rộng vùng của dịch vụ kết nối ở nơi không được đăng ký ban đầu. Sự chuyển vùng này diễn ra khi một thuê bao của nhà cung cấp dịch vụ này dùng cơ sở hạ tầng của nhà cung cấp dịch vụ khác để hỗ trợ cho người thuê bao dịch vụ của mình.
Khi đăng ký roaming, người thuê bao có thể thực hiện cuộc gọi ở vùng không có sóng của nhà mạng mà họ đã đăng ký vì cuộc gọi sẽ được kết nối thông qua việc sử dụng sóng của nhà mạng khác. Do vậy, bà Ngân khai khi ký hợp đồng, bà chỉ đăng ký sử dụng dịch vụ gọi quốc tế khi bà ra nước ngoài là phù hợp với ý nghĩa của thuật ngữ roaming. Trong hợp đồng không giải thích về thuật ngữ roaming nhưng tập đoàn căn cứ vào chữ viết tắt “RM” để giải thích như trên là không có cơ sở.
Cạnh đó, nội dung bảng tính cước phí mà tập đoàn nộp cho tòa cũng không đảm bảo tính khách quan. Cụ thể, ngày 5-7-2013, trong khoảng thời gian 38 phút 13 giây, số thuê bao của bà Ngân đã gọi 23 cuộc đến Maldives nhưng tập đoàn đã tính và yêu cầu phải trả cước phí với thời lượng 16.099 giây (hơn bốn giờ).
Tại tòa, tập đoàn giải thích cước phí 987 triệu đồng là cước chuyển cuộc gọi, không phải cước gọi quốc tế. Tuy nhiên, nguyên đơn lại không cung cấp được các số máy đã gọi cho số máy 524 để thực hiện dịch vụ chuyển cuộc gọi. Như vậy, khi tiền cước dịch vụ Roaming vượt quá ngưỡng 5 triệu đồng mà tập đoàn không chặn cuộc gọi là có lỗi. Từ đó tòa bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện, vì thế phía tập đoàn kháng cáo.
Đề nghị hủy án sơ thẩm
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện VKSND TP.HCM đề nghị HĐXX hủy toàn bộ bản án, trả hồ sơ giải quyết lại từ đầu. Theo VKS, cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng khi xét xử không có sự tham gia của đại diện VKS cùng cấp. Cấp sơ thẩm trưng cầu Bộ TT&TT để giám định cách tính phí của nguyên đơn là không đảm bảo khách quan, vì đây là cơ quan chủ quản của nguyên đơn. |